Nghiên cứu những biến đổi hình thái, chức năng thất phải và áp lực động mạch phổi ở những bệnh nhân bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

 

Tóm tắt (Abstract): Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là một trong những bệnh hô hấp thường gặp. Biến chứng của BPTNMT thường là tâm phế mạn (TPM).

Mục tiêu (Objective): Đánh giá những biến đổi về hình thái, chức năng thất phải và áp lực động mạch phổi bằng siêu âm Doppler tim ở những bệnh nhân bị BPTNMT. Tìm mối tương quan giữa các thông số siêu âm Doppler tim với các thông số thông khí phổi và khí máu động mạch.

Phương pháp (Method): Gồm 118 người, 48 người bình thường, 70 BPTNMT ở giai đoạn ổn định, nhịp xoang, phân loại giai đoạn thông khí phổi theo của ATS 1995. PaO2, PaCO2 được đo bằng máy AVL compact 1 gas analyzer. Các thông số siêu âm Doppler tim được đo bằng máy siêu âm Doppler màu AU4 Ideal của hãng Siemens, đầu dò sector điện tử 2.5 MHz. Các thông số siêu âm nghiên cứu: về hình thái thất phải: bề dày thành thất phải, đường kính tâm trương thất phải, động mạch phổi. Các thông số Doppler xung: VE, VA,VA/VE, thời gian giãn đồng thể tích thất phải (theo Larrazet F 1997), chỉ số Tei thất phải (theo Tei C 1996), thời gian tăng tốc, thời gian tăng tốc / thời gian tống máu thất phải và cung lượng tim phải. Đo áp lực tâm thu động mạch phổi bằng Doppler liên tục theo công thức PAPs=4Vmax2+10mmHg (TAP khi PAPs>35mmHg). Xử lý số liệu: SPSS 10.0 for Windows.

Kết quả (Results): BPTNMT có TAP chiếm tỷ lệ cao (68.57%). Có những biến đổi về hình thái thất phải và động mạch phổi nhóm BPTNMT (p<0.01) nhất là nhóm TAP so với nhóm chứng (p<0.001). Biến đổi chức năng thất phải sớm ở nhóm BPTNMT không TAP so với nhóm chứng (p<0.02) càng rõ nét ở nhóm TAP (p<0.001) và giữa hai nhóm TAP và không TAP (p<0.001). Cung lượng thất phải tăng có ý nghĩa ở nhóm BPTNMT so với nhóm chứng (p<0.001). Có mối tương quan từ vừa đến chặt chẽ giữa PAPs với các thông số siêu âm Doppler tim (|r|=0.38-0.76, p=0.007-<0.001), giữa các thông số siêu âm Doppler về hình thái, chức năng thất phải theo phân loại giai đoạn ATS (|r|=0.48-0.92, p<0.05-0.001) và giữa các thông số thông khí phổi, PaO2, PaCO2 (|r|=0.23-0.54, p<0.05-0.01).

Kết luận (Conclusion): Siêu âm Doppler tim cho phép đánh giá những biến đổi sớm về hình thái, chức năng thất phải và áp lực động mạch phổi ngay cả khi chưa có TAP và càng rõ nét khi có TAP ở bệnh nhân BPTNMT.